Thời điểm đẹp nhất để ngắm rừng lá vàng đan xen sắc đỏ ở Trung Quốc là khoảng giữa tháng 10 đến đầu tháng 11. Sắc màu mùa thu lan rộng từ miền Bắc xuống miền Nam.
Lúc này, nếu phía Bắc màu vàng đỏ chen nhau, phía Nam mới chỉ một màu cam sáng. Bức tranh phong cảnh thiên nhiên nơi đây càng rạng rỡ hơn với những gam màu cây cỏ hòa quyện tiết trời thu.
Tạm rời xa những cơn mưa tầm tã, cuối tháng 10, mùa thu mang theo sắc vàng rạng ngời trên từng con đường, ngõ hẻm. Những ai từng chứng kiến cảnh vật Trung Quốc vào mùa cây thay lá chắc chắn sẽ hiểu cảm giác "lạc vào chốn tiên cảnh" là như thế nào.
Ngắm những chiếc lá ngả màu, đung đưa trước từng cơn gió lạ để rồi thả mình về cội khiến ta muốn ngẩn ngơ. Bỗng, ta khát khao lang thang trên từng hè phố, nơi những cỗ xe lướt qua trên nền âm thanh lá xô nhau xào xạc.
Mùa thu ở Trung Quốc kéo dài từ khoảng tháng 7-9 âm lịch (khoảng tháng 9-11 dương lịch). Tiết trời luôn mát mẻ. Nhiệt độ trung bình 10-20 độ C.
Trong vài tuần ngắn ngủi, cây cối tại Trung Quốc đổi màu và sau đó là rụng lá, chỉ để lại những cành trơ trọi khi mùa đông tới.
Thời điểm đẹp nhất để ngắm rừng lá vàng đan xen sắc đỏ là khoảng giữa tháng 10 đến đầu tháng 11. Khắp Trung Quốc lúc này rợp bóng những hàng cây lá đỏ, vàng đan xen cùng những công trình kiến trúc cổ tuyệt đẹp, tạo nên bức tranh thu phong thuỷ hữu tình, ai cũng muốn tận hưởng.
Ngoài ra, mùa thu cũng là mùa thu hoạch, mùa trái chín tại quốc gia 1,4 tỷ dân. Vào thời điểm này, người ta rục rịch chuẩn bị cho những lễ hội.
Một bên lá vàng rực rỡ, một bên dòng người rộn rã ắp tiếng cười khiến cả không gian bừng lên sức sống, đẹp về cảnh, say về tình. Đây cũng là lý do khiến mùa thu Trung Quốc đón nhiều bước chân lữ hành đến vậy.
Những tán cây lá vàng xen giữa những kiến trúc truyền thống ở thủ đô Bắc Kinh tạo nên vẻ bình yên đến lạ.
Cung điện mùa hè ở Bắc Kinh vào mùa thu. Du khách chắc chắn sẽ xao xuyến trước khung cảnh lãng mạn của rừng lá đang vào độ vàng óng trong nắng thu rực rỡ.
Nếu đã chán cảnh thành phố ồn ào, hãy về với miền thiên nhiên hoang dã. Công viên Quốc gia Cửu Trại Câu ở tỉnh Tứ Xuyên luôn được đánh giá là một trong những nơi ngắm cảnh sắc mùa thu đẹp nhất Trung Quốc.
Ngắm Cửu Trại Câu từ trên cao xuống hay từ dưới lên, mỗi nơi đều mang vẻ độc đáo riêng. Không chỉ đơn thuần hai màu vàng và đỏ, nơi đây còn đan xen những màu sắc khác nhẹ nhàng và thanh tao, tạo nên một bản giao hưởng chào đón mùa thu.
Nhiều du khách lựa chọn làng Hải Dương, tỉnh Quảng Tây, làm điểm đến trong những ngày thu se lạnh. Địa danh này nổi tiếng với những cây bạch quả lâu năm, những cây cổ thụ hàng nghìn năm tuổi vươn cao trên bầu trời.
Mùa thu nhuộm vàng đất trời khu bảo tồn thiên nhiên Kanas, Tân Cương. Nơi đây nổi tiếng với hệ thống sinh thái tự nhiên tuyệt đẹp, được tạo nên bởi sông, hồ, đồng cỏ và những cánh rừng. Một trong những địa điểm nổi bật nhất là hồ Kanas, có nguồn gốc từ dòng sông băng cùng tên trên núi Altay.
Ngoài ra, bạn cũng có thể tham khảo một số địa điểm khác như phim trường vô tích, núi Thê Hà tại tỉnh Giang Tô; núi Hoàng Sơn, tỉnh An Huy; thành phố Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông hay thị trấn Giao Hà, tỉnh Cát Lâm.
Tới với Phim trường Vô Tích - "kinh đô điện ảnh cổ trang" tại Giang Tô, Trung Quốc - luôn là điểm đến không thể bỏ qua cho những ai đam mê khám phá văn hóa và điện ảnh xứ sở trung hoa. Những "bom tấn" cổ trang Trung Quốc, không thể không nhắc đến những thước phim hoành tráng, bối cảnh đẹp mê hồn tái hiện triết lý "Thiên nhân hợp nhất" của người Trung Hoa. Bí mật đằng sau những khung ảnh ấy chính là các phim trường "khủng long" được đầu tư tỉ mỉ, trau chuốt từng chi tiết.
Phim trường Vô Tích sở hữu diện tích rộng lớn gần 100 ha, được chia thành ba khu vực chính: Thành phố Đường, Thành phố Tam Quốc (Tam quốc diễn nghĩa) và Thành phố Thủy Hử. Mỗi khu vực mang đến cho du khách những trải nghiệm độc đáo và không thể nào quên.
Tất nhiên, bạn cũng đừng bỏ quên cảnh đẹp tại Vạn Lý Trường Thành. Nơi đây chắc chắn không bao giờ khiến du khách phải hối tiếc. Vào đỉnh điểm của mùa thu, tất cả cây cối thay màu lá khiến Vạn Lý Trường Thành như đang khoác chiếc áo choàng rực rỡ.
Tại Trung Quốc có một ngôi làng được gọi là “Thiên Nhãn” và kết nối với thế giới bên ngoài bằng duy nhất một con đường độc đạo.
Ẩn mình giữa những ngọn núi đá vôi kỳ vĩ của thành phố Hà Trì (Quảng Tây, Trung Quốc), “Làng Thiên Nhãn” - tên gọi dân dã của thôn Nong Wen Tun nổi bật như một “con mắt khổng lồ” nhìn lên bầu trời khi quan sát từ trên cao.
Chính hình dáng độc đáo ấy đã mang đến cho ngôi làng cái tên đầy thi vị: Thiên Nhãn (mắt trời).
Nằm gọn trong một lòng chảo trên đỉnh núi, ngôi làng chỉ có 7 hộ dân với khoảng 42 người sinh sống. Mặc dù heo hút và biệt lập, cư dân nơi đây vẫn có điều kiện sinh hoạt cơ bản với nhà ở hiện đại, điện, nước, truyền hình và sóng di động.
Một con đường núi đã được trải nhựa là sợi dây duy nhất nối “con mắt trời” này với thế giới bên ngoài.
Không chỉ đặc biệt ở vị trí địa lý, Làng Thiên Nhãn còn khiến du khách và giới quay phim mê đắm bởi khung cảnh hoang sơ, yên bình và những tầng rừng nguyên sinh bọc lấy các vách đá dựng đứng. Trong vài năm gần đây, nơi đây đã dần xuất hiện trong các clip flycam, phóng sự địa lý và tour khám phá của những người mê xê dịch.
Chính quyền địa phương đã đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng như cải tạo đường sá, mở rộng phủ sóng di động toàn khu vực, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cuộc sống người dân và từng bước phát triển du lịch sinh thái. Tuy vậy, sự cô lập tương đối cùng vẻ đẹp nguyên sơ vẫn giữ cho Làng Thiên Nhãn nét cuốn hút riêng - một vùng đất như bước ra từ cổ tích, lặng lẽ “dõi mắt” lên trời cao giữa đại ngàn miền Nam Trung Quốc.
Thi quỷ Lý Hạ 李賀 (790-816) thuộc dòng dõi tôn thất nhà Đường, cực kỳ thông minh đĩnh ngộ, khi mới lên bảy đã biết làm thơ. Danh sĩ đương thời là Hàn Dũ nghe tiếng Hạ bèn cùng Hoàng Phủ Thực đến nhà. Hai người muốn thử tài nên bắt Hạ làm thơ. Hạ thản nhiên cầm bút viết ngay bài Cao hiên quá trình lên, hai ông xem xong đều kinh hoảng. Bài thơ Cao hiên quá có những câu vô cùng kỳ dị, nếu đúng là do một cậu bé làm ra như giai thoại được kể trong Thái bình ngự lãm thì hai nhà thơ đương thời có kinh tâm động phách cũng là điều dễ hiểu: “Điện tiền tác phú thanh ma không, Bút bổ tạo hoá thiên vô công” (Trước nhà, làm thơ trình, thanh âm của bài thơ chạm vào bầu trời, Ngọn bút bổ sung những chỗ khiếm khuyết bất toàn của tạo hoá một cách dễ dàng, không tốn chút công sức).
David Cheriton, một trong những nhà đầu tư viết tấm séc đầu tiên cho Google, với khối tài sản ước tính hơn 20 tỷ USD, có lối sống tiết kiệm đến mức cực đoan.
David Cheriton, giáo sư khoa học máy tính tại Đại học Stanford, là một trong những nhà đầu tư đầu tiên vào Google và trở thành tỷ phú với khối tài sản ước tính hơn 20 tỷ USD (theo số liệu của Forbes năm 2023). Tuy nhiên, trái ngược với hình ảnh thường thấy về giới siêu giàu, Cheriton nổi tiếng với lối sống tiết kiệm đến mức cực đoan, thường được truyền thông gọi là “tỷ phú keo kiệt nhất Thung lũng Silicon".
Không mua nhà mới, xe chỉ cần di chuyển được
Trong bài phỏng vấn với Forbes, Cheriton chia sẻ rằng ông vẫn sống trong ngôi nhà mua từ những năm 1980 tại Palo Alto, California, nơi giá nhà đất hiện nay đã tăng gấp hàng chục lần so với thời điểm ông mua. “Tôi thấy không có lý do gì để chuyển đi”, ông nói. Ngôi nhà này không sang trọng, không có hồ bơi hay rạp chiếu phim như nhiều biệt thự tỷ phú khác. Ông thích sự ổn định và không muốn mất thời gian vào việc quản lý những tài sản vật chất phức tạp.
Xe ông thường lái là chiếc Volkswagen Vanagon đời 1986 — mẫu xe đã ngừng sản xuất từ lâu. “Tôi chỉ cần thứ gì đưa tôi từ A đến B”, ông trả lời Business Insider năm 2015. Chiếc xe cũ này là biểu tượng cho quan điểm sống thực dụng và phản xa hoa của ông.
Không chỉ xe cộ, ông còn tự cắt tóc tại nhà để tiết kiệm thời gian và chi phí. Việc đến tiệm tóc đối với ông là điều không cần thiết và có phần lãng phí.
Một chi tiết khiến nhiều người bất ngờ là ông chỉ mua cà phê khi có khuyến mãi hoặc có phiếu giảm giá. Theo Business Insider, Cheriton thường xuyên dùng phiếu giảm giá và luôn cân nhắc rất kỹ trước khi chi tiêu, bất kể là số tiền lớn hay nhỏ. “Tôi không thấy có lý do gì để mua thứ gì đó với giá niêm yết, nếu có thể mua rẻ hơn”, ông từng nói trong một hội nghị về tiêu dùng thông minh.
Xa hoa là dấu hiệu của kém hiểu biết
Không chỉ sống tiết kiệm, Cheriton còn có những quan điểm rất rõ ràng về việc tiêu tiền của giới siêu giàu. Trong lần phát biểu trước công chúng, ông cho rằng những người có đến 13 phòng tắm là “đáng xấu hổ” và phung phí không cần thiết. Với ông, sự xa hoa không phải là thành tựu mà là dấu hiệu của sự kém hiểu biết.
Dù giàu có, Cheriton vẫn là giáo sư tận tụy khi tiếp tục giảng dạy và nghiên cứu tại Stanford. Ông không nghỉ hưu sớm, không chuyển sang làm đầu tư toàn thời gian như nhiều người khác. Ông xem giáo dục là đam mê và trách nhiệm.
David Cheriton
Năm 1998, ông cùng đồng nghiệp Rajeev Motwani đầu tư 100.000 USD cho Sergey Brin và Larry Page để giúp khởi động Google. Khoản đầu tư này mang lại cho ông hàng tỷ USD lợi nhuận. Tuy nhiên, theo Forbes, lối sống và triết lý sống của ông gần như không thay đổi kể từ trước khi ông trở thành tỷ phú.
Trong danh sách những tỷ phú sống giản dị do MoneyMade tổng hợp năm 2023, David Cheriton được xếp hàng đầu bên cạnh các tên tuổi như Warren Buffett và Ingvar Kamprad (người sáng lập IKEA). Theo MoneyMade, Cheriton là minh chứng rõ ràng cho việc không phải ai có tiền cũng cần thể hiện sự giàu có. Ông không chỉ sống khiêm tốn mà còn dùng tài sản của mình để phục vụ cho các mục tiêu dài hạn có ích cho xã hội.
Cheriton được cho là đã quyên góp hàng trăm triệu USD cho các trường đại học, các quỹ nghiên cứu khoa học và các tổ chức phi lợi nhuận. Trong đó có khoản tài trợ lớn cho trường cũ University of Waterloo (Canada) nơi ông từng học tập. Ông coi việc đầu tư vào giáo dục và khoa học là một phần trách nhiệm của những người thành công, thay vì tiêu tiền vào những thứ xa xỉ cá nhân như du thuyền hay biệt thự.
Với kiến trúc độc đáo, những cây cầu đẹp nhất thế giới tựa như những tác phẩm nghệ thuật từ thiên nhiên nhưng không thể ẩn giấu nỗi sợ hãi.
Rakotz Brucke ở Đức hay Langkawi Sky, Shaharal là những cây cầu có tuổi đời hàng thế kỷ nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp khiến du khách ngỡ ngàng. Hãy cùng điểm danh 5 cây cầu đẹp và kỳ lạ nhất thế giới thu hút nhiều du khách đến check-in.
Cầu Rakotzbrücke ở Kromlau
Rakotzbrücke, còn được biết đến với tên gọi “Cầu Quỷ”, nằm trong khuôn viên Công viên Azalea và Rhododendron Kromlau (Saxony, Đức) là công trình mang đầy tính nghệ thuật hơn mang chức năng giao thông như thông thường.
Cầu Rakotzbrücke ở Kromlau mang kiến trúc độc đáo.
Cầu Rakotzbrücke được khởi công từ năm 1866 và hoàn thiện vào khoảng năm 1875 dưới sự chỉ đạo của chủ sở hữu đồn điền Friedrich Herrmann Rötschke. Cây cầu làm bằng đá bazan và dài gần 19,8m.
Cây cầu từng được ví như “công trình của quỷ dữ” do dáng vẻ kỳ dị và độ cong thoải đến mức bất thường - người xưa từng nghĩ chỉ có quỷ mới xây được kiểu cầu như vậy. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học khẳng định toàn bộ công trình do con người xây dựng.
Suốt bốn mùa trong năm, cầu Rakotzbrücke là địa điểm thu hút khách du lịch đến tham quan, do sự biến đổi của cảnh sắc xung quanh. Tuy nhiên, bạn cần lưu ý, việc đi bộ trên cầu sẽ bị cấm vì mục đích bảo tồn di sản này cho thế hệ mai sau.
Cầu Langkawi Sky (Malaysia)
Cầu Langkawi Sky, bắc trên đỉnh hai ngọn núi thuộc núi Mat Cincang (Gunung Mat Chinchang), cao khoảng 660 m so với mực nước biển. Với thiết kế dạng cầu đi bộ dây văng, cây cầu dài 125 m, rộng khoảng 1,8 m, nổi bật với hai khu vực nền kính minh bạch cho phép du khách phóng tầm nhìn từ trên cao xuống thung lũng rừng xanh bao quanh.
Cầu Langkawi Sky có sức chưa lên đến 250 người cùng lúc.
Việc xây dựng cây cầu có cấu trúc độc lạ như vậy không hề dễ dàng. Đội ngũ chuyên môn phải tính đến các yếu tố như cân bằng kết cấu từ đỉnh cột chống, kiểm soát trọng lượng và phân bổ một cách tối ưu. Nhờ đó, cây cầu có thể chịu được sức nặng của 250 người cùng lúc.
Đây là một trong số ít những cây cầu trên thế giới được xây dựng lơ lửng trên không tạo cảm giác mạnh cho du khách. Đặc biệt, thiết kế uốn cong của cây cầu còn giúp du khách trải nghiệm nhiều góc nhìn khác biệt khi di chuyển, từ cảnh đá núi rừng đến biển Andaman và các đảo lân cận, thậm chí có thể nhìn thấy đất liền Thái Lan vào ngày trời quang.
Cầu bện từ rễ cây (Ấn Độ)
Tại khu vực Cherrapunji, thuộc bang Meghalaya ở đông bắc Ấn Độ, người dân bộ tộc Khasi đã phát triển một kỹ thuật độc đáo: trồng và hướng rễ cây để tạo thành cầu sống tự nhiên.
Theo người dân địa phương, cây đa búp đỏ hay còn gọi đa cao su (tên khoa học Ficus elastica) được trồng hai bên bờ. Trong quá trình cây phát triển trưởng thành (khoảng 15 - 30 năm) sẽ tạo ra bộ rễ trụ thòng xuống vững chắc.
Cây cầu rất vững chắc và không cần bảo dưỡng.
Trong thời gian đó, người Khasi luồn những sợi rễ cây qua giàn tre được lắp đặt tạm thời để cố định rễ. Trải qua thời gian, bộ rễ ngày càng phát triển và kết dính chặt với nhau, hình thành nên "những cây cầu sống" độc đáo có chiều dài từ 4,5 - 75m và có thể chịu được tải trọng của 35 người mỗi lần đi qua.
Dù khu vực này thường xảy ra mưa lớn, lũ quét và nhiều trận bão, nhưng những cây cầu này vẫn đứng vững, giúp kết nối các ngôi làng hẻo lánh nằm rải rác của vùng Meghalaya lại với nhau.
Cầu Moses (Hà Lan)
Trong khi hầu hết những cây cầu đều được xây dựng trên mặt nước thì cầu Moses ở Fort de Roovere, thuộc thị trấn Halsteren, Hà Lan lại được xây dựng dưới nước. Các bức tường của cây cầu giống như một con đập giữ nước với cấu trúc hài hòa với môi trường xung quanh.
Nhìn từ hai bên bờ, du khách sẽ thấy rõ cây cầu rẽ nước như thế nào. Hình ảnh này gợi đến câu chuyện về nhà tiên tri Moses, người được Chúa trời rẽ nước biển Đỏ cứu dân Israel khỏi gươm đao của đạo quân Ai Cập. Đây cũng chính là lý do nó được đặt tên là cầu Moses.
Chỉ với hơn 8 tỷ, Hà Lan đã xây dựng được cây câu độc đáo nhất thế giới.
Để chống thấm nước và mục nát, khi xây dựng cây cầu này người dân Hà Lan lựa chọn loại gỗ nhiệt đới tốt nhất thế giới, vốn có khả năng chống ăn mòn cao hơn những loại gỗ khác. Ngoài ra, họ còn sơn một lớp kháng khuẩn không độc hại lên bề mặt gỗ và bọc trong giấy nhôm.
Đặc biệt, vào mùa đông, hào nước xung quanh cây cầu sẽ đóng băng hoàn toàn và trở thành sân trượt băng tự nhiên cho du khách.
Cầu Shaharal
Cầu Shaharal được biết đến là cây cầu "kỳ quặc" nhất thế giới, tồn tại suốt 400 năm nhưng vẫn chưa có lời giải. Cây cầu là biểu tượng của sự kiên cường của người Yemen.
Nó nằm về phía tây nam của Shaharah, một thành phố thuộc vùng hành chính Amran, cách thủ đô Sanaa khoảng 100km về phía tây bắc. Cầu Shaharal nằm giữa hai ngọn núi al-Amir và núi Faish, cây cầu bắc qua hẻm núi sâu khoảng 90m và ở độ cao khoảng 2.600m so với mực nước biển.
Cây cầu là con đường duy nhất nối hai ngôi làng tại Shaharah lại với nhau.
Cây cầu này là công trình vòm dành cho người đi bộ, xây dựng từ đá vôi. Cầu có đường mòn dẫn từ hai phía đầu cầu, nối từ vùng núi gần đó và được trang trí bằng những bậc thang.
Dù được xây dựng với công nghệ hiện đại, nhưng việc xây dựng kiểu cầu như vậy vẫn gặp không ít khó khăn. Tính đến thời điểm hiện tại, cây cầu này tồn tại hơn 400 năm và vẫn nằm vững chãi giữa vách đá.
Trước khi Yemen xảy ra nội chiến thì cầu Shaharah vẫn được xem là là một trong những điểm thu hút du lịch, đặc biệt với những người yêu phiêu lưu và muốn đi bộ để thưởng thức cảnh đẹp. Theo thời gian, cây cầu được mọi người đặt biệt danh là “Cầu Than Thở” với vẻ đẹp ngoạn mục khiến bất cứ ai khi đi qua cây cầu cũng phải trầm trồ khen ngợi.
Từ huyền thoại “Cosa Nostra” đến những vụ thảm sát đẫm máu, “Năm Gia đình” mafia – từng là thế lực ngầm chi phối cả một thành phố và gieo rắc nỗi sợ khắp nước Mỹ.
“Năm Gia đình” – Genovese, Gambino, Lucchese, Colombo và Bonanno – đã thao túng nền kinh tế ngầm của New York trong suốt nhiều thập kỷ bằng vũ lực, hối lộ và quyền lực thầm lặng. (Ảnh: Getty)
Trong suốt gần một thế kỷ, năm gia đình mafia từng thao túng New York như những đế vương bóng đêm. Đó là nơi mà những cái bắt tay mang giá trị triệu đô, và những cái gật đầu có thể kết thúc một mạng sống.
Sự ra đời của một “chính phủ trong bóng tối”
Vào đầu thế kỷ 20, New York trở thành trung tâm hội tụ của các tổ chức tội phạm gốc Ý, đặc biệt là từ đảo Sicily. Tình trạng tranh giành quyền lực, thanh trừng đẫm máu giữa các băng đảng mafia gốc Ý khiến thành phố rơi vào tình trạng hỗn loạn. Cao trào của xung đột này là “Chiến tranh Castellammarese” vào cuối những năm 1920 và đầu 1930, giữa hai ông trùm Joe Masseria và Salvatore Maranzano.
Sau khi cả hai bị ám sát, Charles “Lucky” Luciano – một tay giang hồ trẻ nhưng đầy mưu lược – đã nắm lấy thời cơ để thiết lập lại trật tự thế giới ngầm. Năm 1931, Luciano chia quyền lực tại New York cho 5 tổ chức lớn, gọi là “Năm Gia đình”, đồng thời thành lập một “ủy ban” tối cao (The Commission) để điều hành toàn bộ mafia Mỹ, giải quyết tranh chấp và phối hợp hành động giữa các gia đình.
Các gia đình này tham gia vào rất nhiều hoạt động khác nhau. Họ điều hành các đường dây cờ bạc và buôn bán ma túy, kiểm soát các công ty xây dựng và vận tải.
Gia đình Genovese: Rolls Royce” của mafia Mỹ
Nếu mafia là một thương hiệu, thì gia đình Genovese chính là phiên bản Rolls-Royce: kín tiếng, quyền lực và đầy tinh vi. Trong thế giới ngầm New York, gia đình Genovese luôn là cái tên khiến cả mafia lẫn cơ quan chức năng phải e dè – không vì sự ồn ào, mà vì sự im lặng chết người.
Dưới thời Vito Genovese, họ không bắn nhiều, không khoe khoang, nhưng điều khiển cả hệ thống từ phía sau bức màn.
Chân dung John Gotti — ông trùm gia đình Gambino, thường được gọi là “The Teflon Don” hoặc “The Dapper Don” trong thế giới ngầm và truyền thông Mỹ.
Genovese cắm rễ vào các ngành xây dựng, vận tải, thậm chí cả công đoàn. Họ không cần nổ súng – chỉ cần một cái nhấc điện thoại, mọi thứ sẽ được “sắp xếp”. Họ tồn tại qua nhiều đời chính quyền, và đến nay vẫn được cho là gia đình có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất còn sót lại.
Ông trùm khét tiếng nhất của họ – Vito Genovese – từng tham vọng thống trị toàn bộ mafia Mỹ. Tuy nhiên, chính tính cách tàn nhẫn và lộ liễu đã khiến ông vướng vòng lao lý. Sau đó, Genovese chuyển mình thành gia đình “ẩn thân”, sống sót dai dẳng hơn.
Dù không có những vụ thanh trừng công khai hay hình tượng truyền thông như Gotti, Genovese vẫn duy trì quyền lực lặng lẽ. Đó chính là thứ khiến họ trở thành “ông trùm của các ông trùm” – không cần nổ súng, chỉ cần ra hiệu.
Gia đình Gambino: Vinh quang, phản bội và cái chết dưới ánh đèn
Gambino là gia đình mafia sở hữu nhiều “ngôi sao” nhất – từ ông trùm kín tiếng Carlo Gambino đến huyền thoại truyền thông John Gotti. Nhưng trước đó, câu chuyện bắt đầu bằng máu: Vincent Mangano, ông trùm đầu tiên, mất tích bí ẩn năm 1951. Kẻ tình nghi? Người kế nhiệm – Albert Anastasia. Và rồi Anastasia cũng bị ám sát ngay tại tiệm cắt tóc, trong âm mưu do chính Carlo Gambino dàn dựng.
Gambino lên ngôi và giữ quyền lực suốt 20 năm, cho đến khi qua đời.
Thập niên 1980, John Gotti lên nắm quyền sau vụ ám sát ông trùm Paul Castellano. Với phong cách hào nhoáng, Gotti trở thành "Teflon Don" – người trốn tránh pháp luật ngoạn mục. Nhưng năm 1992, hắn bị kết án nhờ lời khai của tay chân thân tín Sammy the Bull.
Gotti chết trong tù, nhưng cái tên Gambino mãi mãi gắn với thời kỳ rực rỡ – và khốc liệt – nhất của mafia New York.
Gia đình Lucchese: Khi mafia bước lên màn bạc
Nếu có một gia đình mafia sống động nhất trong ký ức đại chúng – thì đó chính là Lucchese. Không chỉ bởi khả năng điều hành “như doanh nghiệp” mà còn vì câu chuyện của họ đã trở thành chất liệu cho một trong những bộ phim kinh điển nhất Hollywood: Goodfellas.
Chân dung đen trắng chính thức từ thập niên 1950, ghi lại phong thái điềm đạm và quyền lực của Lucchese – người từng là nhân chứng hiếm hoi của thế giới ngầm tại phiên điều trần trước Quốc hội Mỹ.
Gia đình này được thành lập dưới sự lãnh đạo của ông trùm Tommy Gagliano, một nhân vật trầm lặng, ít thị phi, nhưng có ảnh hưởng lớn trong “Ủy ban” Cosa Nostra. Gagliano điều hành gia đình cho đến năm 1951, khi ông nghỉ hưu vì bệnh. Người kế nhiệm – Tommy “Three-Finger Brown” Lucchese – không chỉ là người đặt tên cho gia đình, mà còn biến nó thành một thế lực thực sự.
Lucchese qua đời năm 1967 vì khối u não, nhưng di sản của ông vẫn tiếp tục sống trong những vụ cướp liều lĩnh, những đường dây rửa tiền tinh vi – và cả những bộ phim.
Nổi bật nhất là vụ cướp Lufthansa năm 1978 – một trong những vụ trộm lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Đêm đó, tại sân bay quốc tế John F. Kennedy, một nhóm sát thủ và tay trong của Lucchese đã cuỗm đi khoảng 5 triệu USD tiền mặt cùng 800.000 USD trang sức.
Kẻ cầm đầu phi vụ, Henry Hill, sau này trở thành người cung cấp thông tin cho FBI. Hill được đưa vào chương trình bảo vệ nhân chứng – và trở thành một biểu tượng văn hóa đại chúng khi nhà văn Nicholas Pileggi kể lại câu chuyện đời anh trong cuốn sách Wiseguy: Life in a Mafia Family (1985).
Tác phẩm này sau đó được đạo diễn Martin Scorsese chuyển thể thành phim Goodfellas (1990) – một tượng đài điện ảnh về thế giới mafia, đưa hình ảnh của gia đình Lucchese khắc vào trí nhớ người Mỹ.
Gia đình Bonanno: Từ đỉnh cao đến cú sụp đổ lịch sử
Joseph Bonanno từng là một ông trùm đáng kính, cho đến khi ông mưu đồ chiếm đoạt chiếc “ghế chủ tọa” của “ủy ban” mafia tối cao. Cuộc đảo chính thất bại, gia đình rơi vào khủng hoảng và bạo lực nội bộ kéo dài gần một thập kỷ.
Bonanno mưu đồ thâu tóm cả ủy ban, dẫn đến một cuộc khủng hoảng nội bộ kéo dài suốt thập niên 1960–1970. Mất kiểm soát, gia đình này dần rơi vào tầm ngắm của FBI – và rồi một cái tên xuất hiện, làm thay đổi mọi thứ: Donnie Brasco.
Từ năm 1976 đến 1981, đặc vụ FBI Joseph Pistone đã bí mật thâm nhập vào gia đình Bonanno dưới vỏ bọc Donnie Brasco – một tay buôn đồ trang sức đầy máu lạnh. Sự liều lĩnh của Pistone đã mang về hơn 100 bản án liên bang cho FBI, và phơi bày những bí mật chưa từng có của thế giới ngầm. Vụ việc không chỉ là một chiến thắng lịch sử cho cơ quan điều tra, mà còn là cú đánh chí mạng vào uy tín của gia đình Bonanno – vốn tự hào về khả năng kín tiếng.
Năm 2004, Salvatore “Good Guy” Bonanno – trở thành “ông trùm đầu tiên” làm nhân chứng cho FBI.
Gia đình Colombo – Biến động triền miên
So với các gia đình mafia khác, Colombo luôn là một trường hợp lạ lùng: nhỏ nhất, bất ổn nhất và đầy những khúc quanh phản trắc. Nhưng chính điều đó lại khiến họ trở thành một phần không thể thiếu trong bức tranh mafia New York – nơi mọi cuộc thăng tiến đều trả giá bằng máu hoặc phản bội.
Gia đình này khởi đầu dưới sự dẫn dắt của Joseph “Vua Dầu Ô Liu” Profaci, một ông trùm khéo léo và kín tiếng, nắm quyền từ năm 1931 đến khi qua đời vì ung thư năm 1962. Kế nhiệm ông là Joseph “Mắt Ác” Magliocco, nhưng triều đại này nhanh chóng sụp đổ khi Magliocco bị phát hiện âm mưu cùng Joseph Bonanno ám sát Carlo Gambino và Tommy Lucchese – hai ông trùm lớn của Ủy ban.
Colombo cố xây dựng hình ảnh công khai bằng cách lập ra Liên đoàn Quyền Dân Ý–Mỹ và tổ chức các cuộc biểu tình chống FBI. Nhưng chính điều đó đã khiến ông bị ám sát vào năm 1971 – một tay súng lạ mặt bắn ông giữa sự kiện, khiến ông bị liệt suốt phần đời còn lại.
Câu chuyện kỳ lạ hơn nữa đến từ một cái tên khác trong gia đình: Gregory “The Grim Reaper” Scarpa. Trong suốt thập niên 1960 đến 1990, Scarpa không chỉ là sát thủ đáng sợ của Colombo mà còn làm việc như một tay trong của FBI. Ông ta cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra, đổi lại được bảo vệ khỏi nhiều bản án – cho đến khi bị kết tội năm 1993.
Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.
Mùa hè năm 2013, tôi được Đại sứ quán Nhật Bản mời dự một buổi lễ khá thú vị tại University College London (UCL).
Đại diện của Hoàng thân Nagato, tộc Choshu (Trương Xuyên) phải nộp chiến phí 3 triệu đô la sau trận Shimonoseki.
Đó là dịp Anh và Nhật Bản kỷ niệm 150 năm chuyến sang London du học của năm anh em nhà Trương Xuyên, gọi là Choshu Five.
Tại sự kiện này, người ta đọc lá thư riêng của Thủ tướng Shinzo Abe cảm ơn Đại học UCL đã giúp đào tạo thế hệ Âu học đầu tiên của Nhật.
Sau chuyến hải hành 135 ngày trốn đi trên tàu Jardine Matheson (dân Nhật tự ý xuất cảnh phải chịu tội tử hình), năm thanh niên đã tới London năm 1863.
Họ là nhóm sinh viên Nhật đầu tiên học ở một trường châu Âu và sau khi trở về, họ đều trở thành những lãnh đạo hàng đầu của Nhật Bản đúng vào thời Minh Trị.
Hirobumi Ito làm thủ tướng, người cha của Hiến pháp Nhật Bản
Kaoru Inoue thành bộ trưởng ngoại giao đầu tiên và được tôn vinh là 'người cha của nền ngoại giao Nhật;
Yozo Yamao thành người sáng lập của ngành công nghệ và cơ khí Nhật Bản;
Masaru Inoue lập ra ngành hỏa xa theo chuẩn Anh Quốc và Kinsuke Endo nắm ngành tài chính, tiền tệ.
Tất nhiên, sau họ còn thêm nhiều người sang Phương Tây, nhưng 'The Choshu Five' là biểu tượng của thế hệ canh tân, hướng ngoại, xây dựng Nhật hùng cường.
Có nên so sánh?
Hôm nay nhìn lại, con số sinh viên Việt Nam du học nước ngoài đã lên tới hàng vạn.
Nếu tính các thế hệ đã sang Phương Tây, Liên Xô cũ và Đông Âu thì hàng trăm nghìn người Việt đã được học hành trong môi trường hiện đại hơn trong nước.
Vậy mà sang thế kỷ 21 lâu rồi, Việt Nam vẫn còn thuộc nhóm nước sắp có thu nhập trung bình, vẫn nhận, xin viện trợ... và thua Nhật Bản quá xa.
Câu hỏi tôi luôn băn khoăn là phải chăng chỉ 5 người Nhật làm nên kỳ tích duy tân cho nước họ, còn hàng vạn người Việt Nam học đủ nơi, đủ thứ chưa làm được gì?
Chất lượng con người có là yếu tố quyết định?
Ta hãy xem năm anh em họ Trương Xuyên là ai.
Dòng máu võ sĩ đạo
Họ đều là các võ sĩ đạo (samurai) và từ nhỏ sống theo quy tắc hành xử của dòng quý tộc Trương Xuyên (Choshu clan) có truyền thống chống ngoại bang.
Sau khi triều đình Tokugawa ký hòa ước Kanagawa (1854), dòng họ này tự tổ chức kháng chiến chống quân Anh, Pháp, Mỹ và Hà Lan.
Câu chuyện thật giống như khởi nghĩa của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực chống Pháp ở Nam Bộ khi triều đình nhà Nguyễn chủ hòa.
Năm 1863, tàu Medusa của Hà Lan bị gia tộc Trương Xuyên tấn công ở eo biển Shimonoseki, sự kiện gây ra cuộc chiến tháng 9/1864 với liên quân ngoại quốc tấn công lãnh địa của dòng họ này. Nguồn hình ảnh,Print Collector
Năm 1864, một năm sau khi các cậu thiếu niên họ Trương Xuyên tới Anh, cả gia tộc bị bị liên quân nước ngoài tiến đánh, pháo kích dữ dội.
Sau hai ngày chiến đấu, quân Trương Xuyên bị thua, nhiều samurai bị đạn súng và pháo hiện đại giết chết.
Hoàng thân Nagato, đứng đầu gia tộc, phải đã ký hòa ước Shimonoseki, nộp tiền phạt trị giá 3 triệu đô la.
Sự thất bại của dòng họ hẳn đã ảnh hưởng mạnh đến năm thanh niên du học ở Anh trở về vào năm 1868.
Đây là động lực lớn cho tinh thần cải cách của thế hệ samurai 'gác kiếm cung theo nghiệp kinh bang tế thế', chọn các giá trị Phương Tây rất sớm.
Lịch sử du học của người Việt Nam thì có vẻ khác.
Theo GS Vĩnh Sính, một trong những người Việt du học đầu tiên, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) đã đọc 'Tân Thư' và có cùng quan điểm với các nhà cải cách của Nhật Bản thời Minh Trị.
Nhưng số phận buồn thảm của Nguyễn Trường Tộ và cho Đại Nam khi đó là các bản điều trần thống thiết của ông chẳng được vua quan thực hiện.
Thời Pháp các thanh thiếu niên, cả nam và nữ từ gia đình quan lại, tư sản được chọn sang Pháp học để về phục vụ chế độ thuộc địa của Pháp.
Trong số họ đã có nhiều nhà cải cách, và giai đoạn 1945-46 nhiều người đã về hoặc Hà Nội, hoặc Sài Gòn để giúp Việt Nam độc lập.
Chính phủ Trần Trọng Kim có đông trí thức nhất lại chỉ là nội các được Nhật trao quyền ngắn ngủi và ít thực chất vào năm 1945.
Chính phủ liên hiệp Việt Minh-quốc gia cùng năm còn nhiều trí thức nhưng đã nhanh chóng vào cuộc kháng chiến vì Pháp chiếm lại Đông Dương.
Thời Chiến tranh Lạnh, lãnh tụ chính trị cả ở Hà Nội và Sài Gòn đều không phải là trí thức du học từ Âu Mỹ trở về, mà là các nhà cách mạng, tướng lĩnh.
Rất nhiều thanh niên từ Việt Nam Cộng Hòa đã du học ở Phương Tây trở về nhưng chưa đóng góp được nhiều thì cuộc chiến kết thúc.
Sau 1975 đa số họ không được tham chính hay quản lý kinh tế vì lý lịch.
Người Hà Lan trong tranh Nhật Bản. Khi Đông - Tây bắt đầu giao lưu, Nhật Bản vẫn nhìn sự hiện diện của ngoại kiều châu Âu như một sự đe dọa. Nguồn hình ảnh,Buyenlarge
Hàng vạn sinh viên Việt Nam đã sang Liên Xô và Đông Âu học các ngành nghề nhằm trở về 'xây dựng chủ nghĩa xã hội' cho Việt Nam.
Ngoài một số môn khoa học kỹ thuật có ít nhiều ứng dụng, đa số các ngành nghề khác đều bất cập với thực tế một nước chưa phát triển.
Sau 1991 thì dự án chủ nghĩa xã hội phá sản, khiến hàng vạn trí thức 'bị lịch sử bỏ rơi', phải tự xoay xở thích ứng với điều kiện mới.
Nếu khó so sánh phẩm chất con người - khó nói trí thức du học của Nhật và Việt Nam, Trung Quốc ai yêu nước hơn - thì vấn đề là gì?
Tôi tin rằng vấn đề là ở chỗ cả năm anh em nhà Trương Xuyên đã may mắn được Nhật Hoàng Minh Trị sử dụng ngay, trao toàn quyền, rất nhiều quyền.
Ví dụ Hoàng thân Hirobumi Ito không chỉ lập ra nghị viện Nhật, soạn hiến pháp mà còn làm thủ tướng bốn lần.
Ảnh chụp năm 1907 của Hoàng thân Hirobumi Ito (trái), cựu sinh viên University College London, võ sĩ đạo của gia tộc Trương Xuyên, khi ông làm Đại tướng, Thống đốc Triều Tiên, đứng cạnh Thái tử Triều Tiên Yi Un. Nguồn hình ảnh,Universal History Archive
Ông cũng được phong đại tướng quân đội Nhật Hoàng, thống đốc Triều Tiên (Resident-General) khi Nhật Bản chiếm bán đảo này.
Còn ở Việt Nam, tính cả trong thế kỷ 20 đến nay, chưa thấy các trí thức du học về có tinh thần khai phóng, cải cách được trao quyền và cầm quyền.
Ngày nay, số sinh viên du học tại các nước G7 cũng đã và đang ngày càng đông, lên tới hàng chục nghìn, thừa con số cho một bộ, ngành.
Họ đáng ra phải là nền tảng cho một cuộc canh tân mới, lớn hơn các thời đại trước.
Nhưng trong nhiều trường hợp, người ta du học là vì 'di tản giáo dục', không có hoài bão về cải tổ quốc gia như năm sinh viên nhà Trương Xuyên.
Những người được nhà nước đầu tư, cử đi học thì về để phục vụ một bộ máy cũ kỹ, nhiều bất cập, không có quyền phê phán, thay đổi nó.
Gần đây có các 'hạt giống đỏ' du học về được phong chức quyền rồi bị 'tống vào lò', làm nảy sinh câu hỏi đến họ cũng 'sai và xấu' thì tương lai bộ máy sẽ ra sao?
Tất nhiên, nhiều người du học về đã làm trong khu vực công, các đại học, công ty nước ngoài, và đóng góp nhiều vào nền kinh tế đang bùng nổ, tăng trưởng đều.
Có những chuyên gia, nhà quản lý, nhà ngoại giao giỏi ngoại ngữ, đã và đang giúp thay đổi diện mạo quốc gia.
Gần đây, cộng đồng trí thức ở Việt Nam và hải ngoại vui mừng trước tin 'Giáo sư quần đùi' Trương Nguyện Thành về nước lại nhận chức... hiệu phó một đại học.
Cùng lúc, một bộ phận không nhỏ của bộ máy quan lại và con em họ vẫn dùng bằng giả, điểm thi giả để thăng tiến và thống trị.
Việt Nam bỏ ra hàng tỷ USD cho sinh viên du học ở các quốc gia tiên tiến nhất, nên sẽ là vô lý nếu mong họ trở về dùng kiến thức đó bồi đắp một lối mòn.
Nghịch lý này nói lên rất nhiều về tính phù phiếm, hoang phí thời gian, tiền bạc của Việt Nam, nhất là khi ta thấy người Nhật chỉ cần 5 sinh viên mở đường là đủ.
Nhật Bản có là biệt lệ?
Đi du học thành một phong trào ở Việt Nam nhưng công cuộc cải cách vẫn không sử dụng hết các tài năng và kiến thức sinh viên mang về. Nguồn hình ảnh,HOANG DINH NAM
Cũng có thể, Nhật Bản duy tân thành công là một biệt lệ, không phải quy luật và Việt Nam đã không học được gì và sẽ chẳng học được gì.
Tuy thế, cũng có những điều mang tính quy luật: môi trường cởi mở sẽ khuyến khích sáng tạo.
Môi trường mới ở University College London đã làm được điều mà chế độ phong kiến sứ quân Nhật Bản không làm được: bao dung và đoàn kết.
Sau nhóm Choshu có thêm 19 thanh niên từ gia tộc thù địch Satsuma cũng sang trường UCL, nhưng chính tại London hai nhóm đã kết nghĩa tâm giao.
Các sinh viên này không biết rằng ở nhà, hai gia tộc Choshu và Satsuma cũng xóa bỏ thù hằn, lập một liên minh quân sự (Satcho Alliance).
Ba năm sau cuộc chiến thất bại trước liên quân nước ngoài, đến năm 1867, hai dòng này hợp sức giúp nhà vua lật đổ chế độ Tokugawa, mở ra thời Minh Trị.
Trước khi mở cửa tiếp nhận văn hóa Phương Tây, người Nhật đã hòa giải xong với nhau.
Tấm bia mà Nhật Bản tặng trường UCL có dòng chữ:
るばるとこころつどいてはなさかる Harubaru to kokoro tsudoite hana sakaru 'When distant minds come together, cherries blossom'
Vừa có hình ảnh văn hóa Nhật, vừa nêu ra một triết lý, câu này có thể tạm dịch là:
'Khi những tư tưởng từ nơi xa hội ngộ, hoa anh đào bừng nở'.
Nhiều học giả và nhà khoa học đang rời Mỹ do bất ổn chính trị, cắt giảm ngân sách nghiên cứu và môi trường học thuật suy thoái.
Trong nhiều thập kỷ qua, nước Mỹ là điểm đến hàng đầu của giới học thuật toàn cầu. Các trường đại học danh tiếng, chính sách mở cửa, và nguồn tài trợ dồi dào đã giúp Mỹ giữ vững vị trí là trung tâm của đổi mới khoa học và tư tưởng. Thế nhưng, viễn cảnh đó đang thay đổi nhanh chóng. Một làn sóng “chảy máu chất xám” đang âm thầm nhưng mạnh mẽ diễn ra, khi ngày càng nhiều học giả, nhà khoa học và giảng viên Mỹ tìm đường rời khỏi đất nước của mình.
75% nhà khoa học cân nhắc rời đi
Trong một cuộc khảo sát do tạp chí khoa học Nature thực hiện từ tháng 3/2025, hơn 75% trong số 1.600 nhà nghiên cứu tại Mỹ cho biết họ đang cân nhắc chuyển ra nước ngoài để làm việc. Nguyên nhân chính là bởi các chính sách mới dưới nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump, được xem là đang tấn công trực diện vào giáo dục đại học và tự do học thuật.
Đáng chú ý, trong số 690 nhà nghiên cứu sau đại học tham gia khảo sát, có đến 548 người cho biết họ đang tìm kiếm cơ hội ở nơi khác. Tương tự, 255 trong số 340 nghiên cứu sinh tiến sĩ cũng bày tỏ mong muốn rời Mỹ. Những điểm đến được ưa chuộng bao gồm Canada, các nước Tây Âu, và thậm chí cả Trung Quốc – nơi đang nỗ lực thu hút nhân tài bằng các chính sách hấp dẫn.
Nhiều học giả tại Đại học Yale đã quyết định rời Mỹ do lo ngại bất ổn chính trị. (Ảnh: Đại học Yale)
Sự rời đi không chỉ giới hạn ở các nhà khoa học trẻ. Một số học giả tên tuổi tại các trường đại học danh giá cũng đang rời Mỹ vì lý do chính trị.
Giáo sư Jason Stanley – tác giả cuốn How Fascism Works – là một trong những người đầu tiên công khai quyết định rời Đại học Yale để chuyển sang làm việc tại Trường Chính sách Công và Các vấn đề Toàn cầu Munk thuộc Đại học Toronto, Canada. Trong cuộc phỏng vấn với Daily Nous, ông Stanley nhấn mạnh: “Quyết định của tôi hoàn toàn vì bầu không khí chính trị hiện tại ở Mỹ.”
Hai giáo sư sử học khác tại Yale – ông Timothy Snyder và bà Marci Shore – cũng tuyên bố chuyển sang làm việc tại Canada. Bà Shore thẳng thắn bày tỏ lo ngại: “Tôi cảm nhận rằng nhiệm kỳ thứ hai của ông Trump sẽ còn tồi tệ hơn. Các cơ chế kiểm soát quyền lực đã bị tháo bỏ”.
Khi học thuật không còn là vùng an toàn
Bên cạnh cảm giác bất ổn, nhiều nhà khoa học còn đối mặt với sự kiểm duyệt và áp đặt trong nghiên cứu. Theo nhà sinh học tiến hóa Carol Lee, những từ khóa như “diversity” (đa dạng), “women” (phụ nữ), “LGBTQ” giờ đây không được chấp nhận trong hồ sơ xin tài trợ nghiên cứu – một phần trong nỗ lực loại bỏ cái gọi là “wokeism” khỏi hệ thống giáo dục và khoa học Mỹ.
“Có rất nhiều từ chúng tôi không còn được phép sử dụng. Mọi thứ đang bị kiểm duyệt", – Carol Lee, nhà nghiên cứu sinh học, chia sẻ.
Không dừng lại ở đó, hệ thống phân bổ ngân sách nghiên cứu – từng được đánh giá cao về tính minh bạch và cạnh tranh – nay bị chính trị hóa mạnh mẽ. Các cơ quan như Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF), Viện Y tế Quốc gia (NIH), Chương trình Fulbright… đều hứng chịu cắt giảm và bị định hướng về nội dung tài trợ.
Những nhà nghiên cứu nhập cư, vốn chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng học thuật tại Mỹ, cũng cảm thấy bất an. Một nhà nhân học (ẩn danh) cho biết lo ngại bị trục xuất nếu phát biểu chống lại chính phủ.
Sử gia Brian Sandberg trả lời báo chí sau khi quyết định rời Mỹ tới Đại học Aix-Marseille. (Ảnh: The Guardian)
Trong trường hợp của sử gia Brian Sandberg, khi trở về Mỹ sau chuyến công tác tại Pháp, ông lại lo sợ bị giữ lại tại sân bay chỉ vì các phát biểu của mình trước báo chí Pháp. Ông Sandberg sau đó đã ứng tuyển vào chương trình “Safe Place for Science” (Nơi an toàn cho khoa học) của Đại học Aix-Marseille – một sáng kiến của Pháp dành cho các nhà khoa học Mỹ chịu ảnh hưởng bởi chính trị.
Theo James – một nhà nghiên cứu khí hậu – điều này phản ánh xu hướng phản trí thức đang ngày càng lên ngôi tại Mỹ.
Châu Âu, Canada mở rộng vòng tay
Trong bối cảnh giới khoa học Mỹ mất dần niềm tin vào tương lai, các quốc gia khác đang tận dụng cơ hội để thu hút nhân tài. Theo đó, chương trình "Safe Place for Science" của Đại học Aix-Marseille nhận được hơn 300 đơn đăng ký chỉ trong vài tuần. Đối tượng bao gồm các nhà nghiên cứu từ Đại học Yale, Columbia, Stanford và cả NASA.
Hiệu trưởng trường – ông Éric Berton – ví chương trình này như một “sự đảo chiều đau lòng của lịch sử”, khi các nhà khoa học Mỹ giờ đây phải tìm kiếm nơi trú ẩn tại châu Âu, giống như cách Mỹ từng đón các trí thức châu Âu trong Thế chiến II.
Ông Éric Berton, hiệu trưởng Đại học Aix-Marseille (Pháp). (Ảnh: The Guardian)
Không riêng gì Pháp, Liên minh châu Âu cũng công bố gói tài trợ 500 triệu euro để biến lục địa này thành “nơi trú ẩn an toàn cho nghiên cứu”.
Trong khi đó, Chính phủ Canada, đặc biệt là tỉnh Quebec, cũng đang chủ động mời gọi các học giả Mỹ đến làm việc, xem đây là “cơ hội để tái khẳng định vai trò lãnh đạo toàn cầu về nghiên cứu”.
Nếu chính sách hiện tại không được điều chỉnh, Mỹ có thể mất đi thế hệ học giả tiếp theo - những người không còn cảm thấy an toàn để cống hiến và nghiên cứu ngay tại quê hương của mình.
Trúc Bạch là một cái tên dường như không xuất hiện ở nơi nào ngoài tên một hồ nước cỡ trung bình ở Hà Nội. Cái tên này tương truyền có từ sau thời chúa Trịnh Giang, khi các cung nữ phạm lỗi bị đày ra đó, họ dệt nên thứ lụa gọi là lụa trúc, gọi theo chữ Hán là Trúc Bạch, rồi thành tên của xóm làng.
Bình minh lên - hồ Trúc Bạch - Hà Nội (break_away). Ảnh: KTS Nguyen Phu Duc
Bản thân hồ Trúc Bạch cũng chỉ hình thành khi một góc hồ Tây được ngăn ra, nằm ở mỏm trên cùng phía bắc nội thành. Nếu coi sông Hồng là dòng sông mẹ sinh ra những dòng chi lưu và ao hồ trong sự vặn mình uốn khúc qua hàng nghìn năm thì hồ Trúc Bạch là hàng con cháu sinh sau đẻ muộn của dòng sông này.
Hồ Trúc Bạch - Từ hồ thủy lợi đến hồ tâm linh
Hồ Trúc Bạch ban đầu được tạo nên với mục đích thủy lợi, khi dân hai làng ven hồ Tây là Yên Phụ và Yên Quang đắp để ngăn nước bắt cá, sinh ra cái tên Cố Ngự (nghĩa là đê ngăn nước) rồi đọc trại thành Cổ Ngư. Đó là một giả thuyết cho tên gọi con đường ngăn giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch mang tên đường Thanh Niên từ năm 1958.
Hồ Tây, hồ Trúc Bạch và đường Cổ Ngư nhìn từ trên cao, thập niên 1940. Ảnh: TL
Một căn cứ nữa là khi chúa Trịnh Doanh cho đắp vòng La thành vào năm 1749, con đường này cũng nằm trong một đoạn tường lũy, rồi đến thời Nguyễn vẫn còn duy trì, nằm giữa hai cửa ô Thụy Chương và ô Yên Phụ. Đại Nam nhất thống chí khi viết về tỉnh thành Hà Nội, trong mục “núi sông” có ghi: “Hồ Trúc Bạch ở thôn Yên Ninh, huyện Vĩnh Thuận, phía bắc tỉnh thành, chu vi 4 dặm, có thuế thủy lợi. Trong hồ có núi đất, trên núi có chùa Châu Long”. Đoạn mô tả đáng chú ý ở chỗ cho biết hồ này có “thủy lợi”, nghĩa là có vai trò cung cấp nguồn lợi thủy sản và cấp nước.
Hồ Trúc Bạch tuy chỉ rộng 22 ha song đủ chứa giữa lòng một hòn đảo nổi tiếng về nghề đúc đồng. Đảo Ngũ Xã trên hồ Trúc Bạch chỉ rộng 4,5 ha, có khi gọi là Năm Tràng, để chỉ năm hiệp thợ đúc đồng gốc năm làng từ Bắc Ninh đến Kẻ Chợ mở xưởng. Năm Tràng lâu dần đọc trại thành Nam Tràng, sau này được dùng để đặt cho một phố trong đảo.
Ngũ Xã vốn có các lò đúc tiền (“Trúc Bạch tiền lô”), xuất hiện trong nhiều văn bản chữ Hán, được liệt vào một trong các cảnh trí quan trọng của kinh thành. Bài phú nổi tiếng Tụng Tây hồ phú của Nguyễn Huy Lượng viết đời Quang Toản nhà Tây Sơn năm 1801 kể tới cảnh này: “Sen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò”. Lá sen được liên tưởng tới những đồng tiền, hô ứng với chữ lò (cũng là “lô”), cùng cách gọi “năm xã” tạo thành một sự bồi nghĩa hoa mỹ.
Bản đồ quy hoạch khu vực hồ Trúc Bạch và đường Thanh Niên năm 1958. Ảnh: TL
Người ta truyền tụng chính thợ Ngũ Xã đã đúc pho tượng đồng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh vào năm 1677, làm nên một biểu tượng của đất Thăng Long. Ngôi đền được coi là trấn phía bắc của Thăng Long tứ trấn, gần Ngũ Xã và hồ Trúc Bạch, tham gia vào hệ sinh thái văn hóa khu vực này.
Quanh Trúc Bạch là một tập hợp những dấu tích tôn giáo, tín ngưỡng, tạo cho mặt hồ này một “hồ sơ tâm linh”, khi bản thân mặt nước cũng làm minh đường tụ thủy cho phong thủy của phố phường và làng mạc xung quanh. Bên đường Thanh Niên là hòn đảo nhỏ có đền Thủy Trung Tiên hay đền Cẩu Nhi, gần như đối diện với chùa Trấn Quốc cũng trên một hòn đảo giữa hồ Tây. Ngôi đền tụ hội vài sự tích, trong đó nổi bật là câu chuyện về mẹ con chó thần báo ứng về việc Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Trải thăng trầm hư thực đan dệt như tấm lụa cổ xưa, trong phong cảnh đất Thăng Long, Trúc Bạch là phần phụ trợ thế tục hơn cho những khói sóng Dâm Đàm, Lãng Bạc đã thành huyền cảnh. Cao Bá Quát đã viết: “Tiêu dao Trúc Bạch chẳng muốn về. Khói mờ cây xa như nhỏ lại” (tạm dịch Chiều muộn ngắm hồ Trúc Bạch, tên chữ Hán: Trúc Bạch hồ thượng vãn diểu).
Năm 1949, một Phật sự diễn ra tại đảo Ngũ Xã, nơi có chùa Thần Quang thờ Nguyễn Minh Không, tổ sư nghề đúc đồng. Một bức tượng Phật Di Đà cao 3,95m, nặng 10 tấn, đặt trên đài sen cao 1,45m và nặng 3,9 tấn được thượng tọa Vĩnh Tường và tiến sĩ Vũ Văn Quý chủ trì quyên góp đúc. Nghệ nhân Nguyễn Văn Hiếu vẽ kiểu tượng và kiến trúc sư Nguyễn Văn Tùy là thợ cả phường đúc trông coi công việc. Tượng được làm khuôn từ năm 1949 và phải mất gần 4 năm mới có đủ đồng để đúc. Điều đặc biệt là đồng để đúc tượng được lấy từ các bức tượng của chế độ thuộc địa đã bị giật đổ năm 1945 như tượng Nữ thần Tự do (Bà đầm xòe), Paul Bert hay tượng đài tử sĩ Pháp (còn gọi là Canh Nông do có bốn cụm tượng Sĩ Nông Công Thương người Việt bên dưới tượng hai lính Pháp). Pho tượng khổng lồ cần cả làng vào cuộc với 10 lò nấu đồng, trở thành một sự kiện được quan tâm đặc biệt của dân chúng Hà thành.
Đúc tượng Phật A Di Đà chùa Thần Quang (44 Ngũ Xã) khoảng năm 1951 - 1952. Ảnh: EFEO
Bức tượng hoàn thành đầu năm 1953 và trở thành pho tượng đồng lớn nhất miền Bắc cho đến tận năm 2003. Bức tượng Phật được đúc với tay nghề tinh xảo của người Ngũ Xã, trở thành bằng chứng sống động cho một di sản nghề truyền thống còn hiện diện giữa thế kỷ XX.
Để đặt được bức tượng khổng lồ này sau khi đúc xong vào vị trí, nhà chùa nhờ quân đội Pháp mang kích thủy lực để giúp. Sau đó tòa tam bảo mới được xây trùm lên bức tượng, mang phong cách kết hợp hình thức truyền thống với kết cấu hiện đại. Những bức ảnh của quá trình này đã được Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) lưu lại, giúp các thế hệ sau hiểu hơn về cuộc chấn hưng Phật giáo mang sắc thái một sự gặp gỡ đông - tây ở một ngôi làng nhỏ giữa lòng thành phố thời tạm chiếm.
Cho đến đầu thập niên 1990, khi chưa làm đường kè quanh hồ, đảo Ngũ Xã vẫn còn giữ phong cảnh thôn xóm, với bờ cây sát mặt nước, dăm chiếc thuyền nan giữa những mảng bèo tây. Ngũ Xã như một mảnh ký ức yên tĩnh, mặc cho các đường phố xung quanh biến đổi.
Tượng Phật A Di Đà hiện nay trong chùa Thần Quang (44 Ngũ Xã). Ảnh: NTQ
Hồ tự tử và hồ thời sự
Hồ Trúc Bạch nằm ở phía tây một dải đất có dạng tứ giác xen kẹt giữa bốn cạnh: phía bắc là đê Yên Phụ, phía đông đường Thanh Niên giáp hồ Tây, phía tây là con đường cổ Hòe Nhai giáp các cửa ô ra sông Hồng, phía nam chặn lại bằng hào nước Hoàng thành (chính là một đoạn sông Tô Lịch cũ, nay là phố Phan Đình Phùng). Do bị hạn chế địa giới, khu vực này chủ yếu phát triển trong quá trình san lấp các ao hồ, chẳng hạn hồ Cổ Ngựa. Sự hiện đại hóa khu vực bắt đầu từ khi người Pháp phá bỏ bức tường thành phía bắc thành Hà Nội, lấp hào nước sông Tô Lịch, mở đường phố và thiết lập các cơ sở công nghiệp: nhà máy gạch Satic ở phía nam hồ Trúc Bạch, nhà máy thuốc lá, nhà máy nước và điện trên nền hồ Cổ Ngựa giáp chân đê Yên Phụ.
Một cơ sở giáo dục quan trọng phục vụ cho cuộc thuộc địa hóa là Trường thông ngôn Bắc kỳ (Collège des Interprètes du Tonkin) từ năm 1886, đặt tại đình Yên Trì (66 Phó Đức Chính hiện nay), trông ra hồ Trúc Bạch. Một trong những học trò nổi tiếng nhất chính là Nguyễn Văn Vĩnh, vốn là một cậu bé kéo quạt. Người hiệu trưởng Pháp nhận thấy cậu bé thông minh đã nhận vào học và kết quả là nhờ khởi đầu đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã học lên cao, trở thành một học giả xuất chúng, được xếp vào “Trường An tứ hổ” (bốn học giả nổi tiếng của Hà Nội: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố). Đầu thế kỷ XX, cơ sở này chuyển thành Trường Tiểu học Yên Phụ, một trong những trường tiểu học Pháp Việt đầu tiên.
Tuy nhiên, trong đời sống, một sự “tân thời hóa” khu hồ Trúc Bạch khác lại đến từ truyền thông xung quanh phong trào tự tử đầu thập niên 1930. Có đến vài chục bài báo viết về các vụ tự tử ở hồ này, chủ yếu là các thiếu nữ, từ năm 1927 đến hết thập niên 1930. Các bài báo đi từ quan điểm bảo thủ, phê phán các cô gái “tự vẫn là người hèn” (Hà Thành ngọ báo, 5/12/1927) đến chỗ trở thành những dòng tít báo ăn khách trên các tờ Thực nghiệp dân báo, Hà Thành ngọ báo suốt nhiều năm: “Lại một cô con gái toan trẫm mình ở hồ Trúc Bạch”, “Vì bị em chồng hành hạ, một thiếu phụ trẫm mình ở hồ Trúc Bạch”, “Một người đàn bà ẵm con nhảy xuống hồ Trúc Bạch tự tử”…
Những bài báo về tự tử ở hồ Trúc Bạch đầu thập niên 1930.
Chuyện tự tử trên mặt báo đặc biệt chỉ tập trung vào hồ Trúc Bạch và hồ Hoàn Kiếm: “Hồ Gươm và hồ Trúc Bạch như riêng để chôn tấm thân bạc mệnh” (Nông Công Thương nhật báo 17/8/1931), mà “chẳng bao giờ thấy tự trầm trên mặt hồ Tây hay hồ Bảy Mẫu!” (Thực nghiệp dân báo 1/9/1931). Ăn theo sự “ăn khách” của chủ đề hồ Trúc Bạch, nhiều mẩu quảng cáo cũng lấy làm cớ quảng cáo, hạ thấp mục đích quyên sinh là vì không có trang sức mà đeo!
Lý giải cho sự “ưu tiên” hồ Trúc Bạch, Vũ Trọng Phụng đã dành hẳn một chương trong tiểu thuyết Số đỏ lấy bối cảnh hồ này:
“Về phía tây thành Hà Nội có một cái hồ mà người ta chịu khó ngăn đôi thành một con đường cho nó thành ra hai cái hồ… Thoạt đầu người ta hay nhảy xuống hồ Tây, nhưng vì hồ Tây sâu lắm, những kẻ tự tử chẳng may phần nhiều không mấy ai thoát chết cả, thành thử người ta bảo nhau nhảy xuống cái bên cạnh là hồ Trúc Bạch nông hơn. Vì lẽ nhà nước cũng khôn, đã cho trồng mấy cái bảng lớn “Cấm ngặt đổ rác xuống hồ Tây” nên hồ Trúc Bạch lại càng đắt khách. Ðêm đêm, những bác phụ xe ế khách, những kẻ trai tráng biết bơi mà thất nghiệp, thường lên chờ ở đấy để hễ nghe thấy tiếng kêu thảm thương ai oán: “Ai cứu tôi với!...” là nhảy ùm xuống, là vớt ngay được một tiểu thư đẹp nõn lên, rồi đến bốt Hàng Ðậu lĩnh tiền thưởng, và sau cùng, thấy ảnh mình đăng trên báo kèm với những cuộc phỏng vấn ỏm tỏi.
Đường Cổ Ngư cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đoạn cổng đền Quán Thánh. Ảnh: Dieulefils
Vì những lẽ ấy, hồ Trúc Bạch chẳng bao lâu mà trở nên một cách oanh liệt, là một sân khấu của tất cả những tấn đại thảm kịch của những cảnh địa ngục giữa Hà Thành… Hồ Trúc Bạch cứ là một thứ hàn thử biểu, thời khắc biểu về những bi kịch mới cũ xung đột, cá nhân, gia đình, hy sinh, giác ngộ, áp chế, giải phóng mãi mãi, mãi mãi, nếu không có một nhà thương yêu nòi giống xây ngay trên bờ hồ ấy một khách sạn mà Tây phương có lẽ cũng thèm muốn, là khách sạn Bồng Lai”.
Vũ Trọng Phụng đã cho các nhân vật Xuân Tóc Đỏ và Tuyết vào khách sạn Bồng Lai, “cô thì vì tư tưởng giải phóng muốn bị mang tiếng là hư hỏng, cậu thì vì cái trách nhiệm nặng nề muốn làm hại đời một tiểu thư khuê các”. Ở chốn này, cặp đôi nam nữ tân thời này tình cờ phát hiện những cuộc ngoại tình của những nhân vật khác. Hồ Trúc Bạch đã có thể bị xem như một biểu tượng cho sự suy đồi, lấn át bản chất văn hóa sâu sắc vốn có.
Sau những trận lụt lớn cuối thập niên 1920, chính quyền thuộc địa cho rằng đê Yên Phụ yếu có thể làm nước sông Hồng tràn vào hồ Tây và từ hồ này tràn qua hồ Trúc Bạch gây lụt lội thành phố. Họ đề xuất đắp con đường Cổ Ngư cao lên 2,5m. Lo ngại nguy cơ cảnh quan các di tích đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc và con đường dạo mát bị xâm hại, các tổ chức như Hội Địa lý Hà Nội, Viện Viễn Đông Bác cổ, Hội đồng thành phố lập tức phản đối. Rút cục, lý do văn hóa vẫn là yếu tố đủ mạnh để ngưng dự án lại.
Hồ Trúc Bạch, Ngũ Xã và đường Thanh Niên nhìn từ trên cao năm 2020. Ảnh: NTQ
Một dự án khác là đắp rộng con đường xung quanh hồ Trúc Bạch đề xuất vào đầu năm 1934 cũng không thực hiện được, để rồi cho đến thập niên 1940, đây vẫn được xem như một vùng ven, nơi đi về của trăng gió: “Nhà em ở cuối kinh thành. Giữa hồ Trúc Bạch nước xanh như chàm” (Thư cho chị - Nguyễn Bính). Nhà cửa của khu vực này đa phần là những nhà liền kề xen kẽ vài biệt thự, nhỏ hơn nhà dưới khu phố Tây trung tâm, dành cho cư dân chủ yếu là công chức hay người đi làm ở các cửa hiệu.
Cũng nhờ vị trí rìa phía bắc nội thành, vùng quanh hồ Trúc Bạch trở thành nơi tụ họp của nhiều tổ chức chính trị và văn hóa chống thực dân. Năm 1927, tại nhà số 6 đường 96 (nay là 129 Trúc Bạch), Nam Đồng thư xã được thành lập, rồi trở thành nơi thành lập Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học và các đồng chí. Năm 1943, số nhà 124 phố Blockhaus Nord (nay là Phó Đức Chính) là nơi họp bí mật của Hội Văn hóa Cứu quốc, phổ biến nội dung bản Đề cương về văn hóa Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, khu vực Trúc Bạch trở thành nơi nhóm Việt Nam Quốc dân đảng và các đảng phái đối lập với Việt Minh hoạt động mạnh. Trụ sở của họ đặt ở 23 và 80 Quán Thánh, tòa soạn báo Ngày Nay của Tự lực Văn đoàn trước đây, cách hồ Trúc Bạch chừng 600m. Các hoạt động của nhóm này khiến cho khu Trúc Bạch trở thành một điểm nóng trong cuộc giao tranh với Việt Minh cho đến ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ.
Đảo Ngũ Xã trên hồ Trúc Bạch. Ảnh: NTQ
Hai thập niên sau, ngày 26/10/1967, hồ Trúc Bạch lại thành tâm điểm khi viên phi công John McCain, thiếu tá không quân thuộc lực lượng hải quân Hoa Kỳ nhảy dù khỏi chiếc máy bay ném bom bị bắn rơi tại nhà máy điện Yên Phụ, rơi xuống hồ và bị bắt sống. Một bức phù điêu có đắp tượng viên phi công được dựng lên năm 1985 ghi lại sự kiện này. Ông John McCain khi làm thượng nghị sĩ đã quay lại thăm và nói rằng “đó là bức tượng duy nhất của tôi trên thế giới”.
Năm 2008, việc ông ra tranh cử tổng thống Mỹ cũng gây chú ý cho truyền thông quốc tế về nơi ông đã bị bắt. Dòng chữ trên phù điêu được sửa lại nội dung cho ôn hòa hơn, nhất là sau khi John McCain qua đời, trở thành một điểm thu hút nhiều du khách “check-in”, làm nên một cuộc “quốc tế hóa” hồ Trúc Bạch. Ít nhất thì một tổng thống Mỹ đã tới đây đặt hoa và xét một cách hài hước, pho tượng một ông người Mỹ cũng góp vào một bộ sưu tập những pho tượng nổi tiếng quanh hồ.
Hồ Trúc Bạch không lớn nhưng chứng kiến nhiều câu chuyện trải dài vài thế kỷ. Biến chuyển về không gian hồ cũng đồng dạng với quá trình đổi thay của Hà Nội. Những bảng lảng xưa cũ vẫn còn trong những dấu vết văn hóa, từ dấu tích vật chất của những pho tượng đồng đến thi ca. Giờ đây, Trúc Bạch là một nơi thu hút những người trẻ thích thú trải nghiệm với những không gian ẩm thực đầy hoài niệm về thời bao cấp, có lẽ vì khung cảnh quanh hồ vẫn còn đủ sức níu giữ bóng dáng quá khứ.